Phương pháp học tập cộng tác: Làm việc theo nhóm nhỏ
Cập nhật :12/08/2013
Các
nhà nghiên cứu tuyên bố rằng, cho dù nội dung môn học như thế nào thì
sinh viên làm việc theo từng nhóm nhỏ cũng có khuynh hướng học được
nhiều hơn những gì được dạy và nhớ lâu hơn so với các hình thức dạy học
khác.
Barbara Gross Davis, Tools for Teaching
Chúng
ta không phủ nhận tầm quan trọng của cách dạy truyền thống cũng như
hình thức thảo luận theo sự hướng dẫn của giáo viên ở các trường đại
học. Nhưng hiện nay phần lớn giáo viên đã thấy được giá trị của việc
phân sinh viên làm việc cộng tác theo nhóm. Làm việc theo nhóm nhỏ trong
và ngoài giờ học là một phần bổ sung quan trọng cho các bài giảng, giúp
sinh viên nắm vững các khái niệm và áp dụng vào các tình huống cần đến
các kỹ năng suy nghĩ đào sâu. Trong một cuộc nói chuyện gần đây về chủ
đề Những Giáo viên được trao Giải thưởng có tên là “Hãy để sinh viên tự
học – theo nhóm”, Giáo sư Khoa học Sinh học – Hiệu trưởng Emeritus
Donald Kennedy đã phát biểu về vấn đề này. Ông nhắc người nghe rằng sinh
viên ĐH Stanford “giúp đỡ nhau rất nhiều” trong việc học tập. Điều quan
trọng là các giáo viên phải biết cách tận dụng bằng cách tạo cơ hội và
hình thành thói quen cho sinh viên thực hành các phương pháp học tập
nhóm.
Trong khi nhiều giáo viên thỉnh thoảng mới chia lớp học thành nhiều
nhóm nhỏ để thực hiện các bài tập ngắn thì hình thức làm việc theo nhóm
được đề cập ở đây chỉ nói đến các đề tài kéo dài hàng tiết, trong nhiều
buổi học hoặc vài tháng. Giáo viên phân chia sinh viên thành từng nhóm
hoặc sinh viên tự chọn nhóm cho mình và tất nhiên mỗi cách đều có mặt
lợi và mặt hại. Nhưng điều chính yếu ở đây là bài tập phân công đòi hỏi
phải có sự phụ thuộc lẫn nhau vì thế không cá nhân nào có thể hoàn thành bài tập một mình. Hình thức này được gọi là Học dựa trên Vấn đề. Giáo viên đưa ra vấn đề để sinh viên thảo luận và tạo điều kiện hoặc giúp đỡ sinh viên trong quá trình học tập.
Làm việc theo nhóm đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị bài giảng kỹ và
không thể thiếu tính khó trong các bài tập. Nhưng lợi ích đạt được rất
đáng kể, chẳng hạn sinh viên sẽ tích cực tham gia, hiểu và nhớ bài lâu
hơn, nắm vững các kỹ năng quan trọng để có thể thành công trong môn học
hoặc trong nghề nghiệp. Ngoài ra, sinh viên sẽ hăng hái trong việc tự
học, điều này khích lệ sinh viên nghiên cứu độc lập.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu một số đề xuất
trong việc dạy học theo nhóm nhằm đạt được mục đích của môn học, gồm một
số lời khuyên làm thế nào để tránh các vấn đề có khả năng xảy ra.
Phân nhóm làm bài tập nhằm tăng cường học tập
Quyết định phân nhóm học tập cần phải xem xét kỹ các mục đích của môn
học. Chẳng hạn, nếu giáo viên mong muốn sinh viên có thể áp dụng các
kiến thức lý thuyết vào thực tiễn hoặc chứng tỏ tính quyết đoán hay các
kỹ năng giải quyết vấn đề hoặc tính chuyên nghiệp của mình trong lĩnh
vực đó thì phân nhóm học tập rất thích hợp để đưa vào chương trình môn
học. Chúng ta không nên nghĩ phân nhóm học tập là phần việc thêm vào cấu
trúc môn học đã có sẵn mà phải nghĩ điều này có ảnh hưởng quan trọng
trong việc thiết kế chương trình môn học và giúp kết hợp các mục tiêu
lại. Các yếu tố quan trọng khác nên xem xét trước tiên là quy mô lớp học
(vì các lớp đông sinh viên chúng ta cần chú ý trong khâu tổ chức) và
phương pháp đánh giá nhóm (để giáo viên có đủ thời gian và cho ý kiến
phản hồi kịp thời đối với các đề tài làm theo nhóm).
Loại bài tập nhóm giáo viên dự kiến trong môn học cũng cần được kiểm
tra để bảo đảm sinh viên có thể hoàn thành. Nhóm học tập sẽ được khích
lệ và một số khó khăn mà nhóm gặp phải sẽ được loại trừ hoặc giảm tối
thiểu nếu giáo viên thiết kế bài tập như sau:
(1) đòi hỏi cá nhân phải có trách nhiệm giải trình đối với các thành viên nhóm;
(2) các thành viên nhóm phải thảo luận và tác động lẫn nhau;
(3) bảo đảm các thành viên nhận được phản hồi trực tiếp,rõ ràng và có ý nghĩa;
(4) tặng quà cho nhóm nào có kết quả cao (Michaelson, Fink, và Knight 1997).
Trách nhiệm giải trình của cá nhân rất quan trọng cho thành công của
nhóm. Vì theo khuynh hướng tự nhiên sẽ có một số sinh viên vượt trội và
một số kém hơn có khuynh hướng rút lui, điều này sẽ dần dần xảy ra trừ
phi có một cơ chế yêu cầu mọi người tham gia. Điều này rất dễ như dùng
giấy chấm công, mỗi thành viên ghi ra những ý tưởng đóng góp của mình
vào cuộc thảo luận nhóm trong ngày hôm đó hoặc một đề tài lớn hơn kéo
dài trong tuần. Hoặc bao gồm cả việc yêu cầu sinh viên phê bình ý kiến
của các thành viên khác, đặc biệt một phần của sản phẩm là yêu cầu ghi
biên bản ý kiến đóng góp của từng thành viên.
Thật ra, nếu yêu cầu từng nhóm ghi lại bản báo cáo công việc nhóm đã
thực hiện rất có khả năng việc thảo luận hoặc tác động lẫn nhau diễn ra
rất ít. Mặc dù giáo viên yêu cầu sinh viên nỗ lực làm việc theo nhóm
nhưng sinh viên có thể sẽ chia từng phần việc, giao phó công việc cho
từng cá nhân, cuối cùng một người sẽ chịu trách nhiệm tập hợp các ý kiến
đó lại. Sự tác động lẫn nhau và thảo luận có khả năng xảy ra nhất nếu
giáo viên yêu cầu sinh viên giải quyết một vần đề hoặc đưa ra một quyết
định dựa vào một nghiên cứu và phân tích tình huống phức tạp. Với những
bài tập dựa trên vấn đề làm cho sinh viên bị thu hút vào việc thảo luận,
sinh viên sẽ học được hai bài học quan trọng: (1) đóng góp của các
thành viên khác trong nhóm là một nguồn tài nguyên có giá trị và (2)
chúng ta có thể đạt được điều mong muốn khi làm việc cùng nhau, một điều
mà không ai trong chúng ta có thể đạt được khi làm việc một mình.
(Michaelson, Fink và Kight, 1997)
Ý kiến phản hồi từ giáo viên, từ các thành viên trong nhóm và từ các
nhóm khác giúp từng nhóm điều chỉnh lại theo hướng đúng và vì thế giúp
xây dựng mối liên kết giữa các nhóm với nhau. Nếu các nhóm không rõ ràng
trong quá trình làm việc, khó khăn giữa các thành viên sẽ là trở ngại
lớn đến năng lực làm việc theo thứ tự nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Và sản phẩm sau cùng nên được chấm điểm như đề tài của cả nhóm để áp lực
giữa các thành viên trong nhóm thúc đẩy nhau cùng làm việc cho dù là
trong quá trình tổ chức cũng như đối với từng cá nhân có thể nảy sinh
các khó khăn trong quá trình thực hiện.
Một
cách khác để biết xem điều gì làm cho hoạt động nhóm đạt hiệu quả là
chúng ta nghĩ đến các đặc điểm tiêu biểu của một vấn đề hay:
- Kể những câu chuyện hấp dẫn mà sinh viên có thể liên hệ qua đó củng cố mối liên quan giữa lý thuyết và ứng dụng.
- Không hạn chế sinh viên, kích thích sinh viên thực hiện và biện minh cho các ước lượng và giả định mà họ đưa ra.
- Đưa ra
các vấn đề để sinh viên tranh luận hoặc yêu cầu họ đưa ra những quyết
định, vì vậy đòi hỏi sinh viên phải có hướng giải quyết chứng tỏ kỹ năng
tư duy ngoài vốn kiến thức đơn giản và bao hàm mà sinh viên biết.
- Vừa đủ khó để sinh viên thấy rằng họ cần phải cùng nhau làm việc nhằm đưa ra kết luận thỏa đáng. (Allen, Duch và Groh, 1996).
Cuối cùng, phân công nhóm nên bao gồm cả kế hoạch chi tiết để bắt đầu
công việc kể cả ví dụ về các giai đoạn trong quá trình học giúp từng
nhóm theo dõi thành công của mình. Trong biểu đồ thời gian cho một đề
tài, giáo viên nên bao gồm phản hồi của giáo viên trong các buổi họp
hoặc từ các báo cáo quá trình thực hiện.
Dạy sinh viên làm việc theo nhóm
Trong một môi trường học tập mang tính cạnh tranh, sinh viên nào nỗ
lực cao sẽ được khen thưởng thì việc cộng tác với nhau có lẽ không đến
một cách tự nhiên hoặc dễ dàng. Và cho dù hầu hết sinh viên đã từng làm
việc cùng nhau trong các nhóm học tập hoặc các tổ chức xã hội nhưng họ
không bao giờ suy nghĩ kỹ về các kỹ năng có thể nâng cao thành tích của
nhóm. Những giáo viên dạy theo kiểu phân nhóm nhưng lại không đưa ra
hướng dẫn chi tiết hoặc mô hình mẫu để thành công sẽ thấy rằng sinh viên
sẽ phải vật lộn để có thể có được khởi đầu thật tốt.
Dĩ nhiên, một số sinh viên lúc đầu sẽ có thái độ hoài nghi về giá trị
làm việc của nhóm hoặc họ cảm thấy tốt hơn là nên nghe giáo viên giảng
còn hơn là làm việc nhóm với những sinh viên khác – những người mà họ
tin rằng kiến thức cũng ít ỏi như họ. Số khác sẽ cảm thấy họ đã thực sự
thành công vì thế không muốn bị vướng víu bởi các sinh viên khác có quá
trình học tập hoặc phương pháp làm việc khác nhau. Một sồ thì ngại ngùng
và không quen với việc chia sẻ công việc với bạn trong lớp. Để sinh
viên hiểu rõ hơn, từ khi bắt đầu lớp học và trong chương trình môn học,
giáo viên nên nói rõ phần lớn công việc trong khóa học sẽ là làm việc
theo nhóm như thế nào và tại sao làm việc theo nhóm giúp họ đạt được mục
đích mà môn học đề ra. Điều này tiếp tục đến khi có thể khắc phục được
sự chống đối của sinh. Chỉ cho sinh viên thấy được tầm quan trọng của
làm việc theo nhóm và mục tiêu của làm việc theo nhóm là chủ yếu bởi vì
sinh viên sẽ hăng hái tham gia vào hoạt động nhóm nếu họ thấy được mối
liên quan của việc phân công nhóm với các mục tiêu môn học lớn hơn.
Những giáo viên có kinh nghiệm trong việc hướng dẫn lớp học trong các
câu hỏi tư duy phức tạp thường không đánh giá cao là các kỹ năng dạy
học công phu của họ đã bị mài mòn sau nhiều năm và hầu hết sinh viên rất
ít được huấn luyện trong việc hướng dẫn bạn cùng nhóm thông qua các
hoạt động như thế. Các kỹ năng giữa các cá nhân và kỹ năng tổ chức cần
thiết cho việc quản lý một đề tài của nhóm cần phải được nêu rõ trong
bất kỳ bài tập nhóm nào để sinh viên nhận ra tầm quan trọng của những
công việc như: nghe, làm rõ phần trình bày, đưa ra phản hồi có giá trị,
duy trì thảo luận bài tập, nghiên cứu kỹ các giả định và luận cứ, gợi
lên các quan điểm và triển vọng, giải quyết mâu thuẫn, tóm tắt và trình
bày các kết quả tìm được (Bosworth, 1994). Nếu trong bài tập nào cần các
kỹ năng riêng biệt giáo viên phải xác định được các kỹ năng này và đưa
ra ví dụ cách sử dụng thành công các kỹ năng này trong các bài tập hoặc
trong các buổi học. Một cách đơn giản để hỗ trợ sinh viên là gợi ý vai
trò của các thành viên nhóm có thể vận dụng vào bài tập. Chẳng hạn,
người đứng đầu nhóm hướng dẫn thảo luận, người ghi chép ghi lại tóm tắt
buổi thảo luận, người lập kế hoạch phác thảo công việc sẽ thực hiện như
thế nào và ở đâu, người đánh giá đưa ra ý kiến phê bình. Và đưa ra các
miêu tả và ví dụ về các vai trò đó.
Trừ phi kỹ năng quản lý nhóm được chỉ định cũng như sinh viên được
yêu cầu suy nghĩ về thành công và khó khăn mà họ gặp phải khi thực hành
các kỹ năng này, rất ít sinh viên nhận thấy mối quan hệ giữa việc hoàn
thành đề tài và việc đạt được một số mục tiêu lớn trong bài tập hoặc môn
học. Thời gian để kiểm tra các kỹ năng này có thể quyết định đến sự
thành công của các đề tài. Một nhóm đã chỉ ra “Mặc dù giáo viên có thể
hiểu được việc mất thời gian cho việc thảo luận nhóm là miễn cưỡng
nhưng chúng tôi đề nghị sinh viên thoải mái trong học tập sẽ dẫn đến
thúc đẩy nhóm làm việc và đầu tư cho tiết học vào các kỹ năng nhóm”
(Miller, Trimbur và Wilkes, 1994).
Thành lập và hướng dẫn nhóm
Hầu hết các giảng viên đã từng làm việc nhóm trong các môn học đồng ý
rằng nhóm từ 4 đến 6 sinh viên làm việc tốt nhất. Tuy dựa vào công việc
nhưng nhóm lớn hơn (8-10 sinh viên) cũng có thể làm việc thành công.
Quyết định thành lập nhóm như thế nào có thể sẽ phức tạp hơn vì một nhóm
lý tưởng nên gồm nhiều sinh viên khác nhau với sự khác nhau về khả
năng, sự quan tâm về học thuật và lối hiểu biết. Cho phép sinh viên chọn
thành viên nhóm cho mình có thể hoạt động tốt trong các lớp học nhỏ.
Nhưng phương pháp này luôn có rủi ro là phân chia sinh viên hoặc tạo bè
phái trong lớp. Với những lớp lớn hơn, lựa chọn ngẫu nhiên hoặc lựa chọn
dựa vào tính tương thích của thời khóa biểu (những sinh viên có thể gặp
mặt trong các buổi học nhóm ở một số giờ xác định trong mỗi tuần) hoặc
do giáo viên lựa chọn dựa trên bảng câu hỏi trong buổi học đầu tiên sẽ
tốt hơn và công bằng với tất cả sinh viên.
Một khi các nhóm đã được phân chia và bài tập đã được giải thích giáo
viên nên cho ý kiến phản hồi trước khi có giải pháp cuối cùng. Sinh viên
không chỉ cần giúp đỡ để hiểu được bài tập mà họ còn cần lời khuyên và
sự khích lệ từ khi bắt đầu để bảo đảm lần nữa đường lối họ chọn đi đúng
hướng. Bằng cách điểm danh và đặc biệt là yêu cầu kế hoạch hoạt động
tổng thể của từng nhóm, giáo viên không chỉ có thể đưa ra các đề xuất có
ích mà còn hướng dẫn sinh viên theo hướng khác nếu đề tài của nhóm
không khả thi. Ngoài việc yêu cầu sinh viên lập kế hoạch ban đầu, giáo
viên có thể yêu cầu sinh viên báo cáo quá trình làm việc thông qua danh
mục các bước thực hiện trong đề tài hoặc nộp sổ ghi chép hàng ngày sau
mỗi tuần.
Tuy nhiên, trong quá trình đưa ra ý kiến phản hồi cho đề tài của
nhóm, điều quan trọng là giáo viên nên cho phép sinh viên tự quyết định
về việc tiến hành như thế nào. Vai trò của giáo viên là hướng dẫn nhưng
không ra lệnh cho các thành viên nhóm phải làm gì. Chẳng hạn nếu các
thành viên nhóm phàn nàn có một người nào đó không thực hiện công việc
được phân công thì hãy nói rõ rằng việc giải quyết vấn đề này là do nhóm
và giáo viên sẽ không can thiệp vào để giải quyết.
Đánh giá hoạt động nhóm
Do
như đã nêu ở phần đầu, trách nhiệm giải trình của cá nhân rất quan
trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động nhóm thành công. Vì vậy, giáo
viên cần phải định rõ cách chấm điểm tốt nhất, xem xét kết quả làm việc
của cả cá nhân và nhóm. Dĩ nhiên trong hầu hết các môn học, điểm số cho
bất kỳ đề tài nào của nhóm thường chỉ là phần phụ cùng với điểm thi giữa
kỳ và thi cuối kỳ. Nhưng thành tích cá nhân trong hoạt động nhóm có thể
được đánh giá để sinh viên cảm thấy đóng góp của họ vào hoạt động nhóm
được đánh giá tương xứng. Trong quá trình thực hiện đề tài, sinh viên
cũng có thể nhận được các câu hỏi thông tin chi tiết về những gì họ đã
học được, họ cảm thấy đã đóng góp được những gì cho đề tài đó và sẽ cải
tiến kết quả của nhóm như thế nào. Hoặc các cá nhân có thể được gọi ngẫu
nhiên để báo cáo ngắn gọn về quá trình làm việc của nhóm bao gồm mô tả
các vấn đề mà nhóm đã khắc phục được và các câu hỏi vẫn còn chưa trả lời
được.
Chấm điểm thành tích của nhóm nên dựa trên cả sự thành công của sản
phẩm cuối cùng và đánh giá nhóm trong quá trình thực hiện. Nhiều kết
quả nỗ lực của nhóm được trình bày bằng văn bản hoặc một phần trình bày
trước lớp hoặc cách giải quyết một vấn đề cụ thể. Nếu quy mô lớp học
cho phép, toàn bộ lớp có thể đưa ra ý kiến phản hồi về các sản phẩm bằng
cách yêu cầu sinh viên chia sẻ với nhau. Các văn bản được photo ra và
có thể sử dụng được hoặc tải lên trang web. Phần trình bày có thể trình
bày trước lớp hoặc quay phim và luân chuyển cho nhau. Để giúp sinh viên
đánh giá công bằng công trình của nhóm khác, giáo viên có thể đưa ra
hướng dẫn đánh giá yêu cầu sinh viên cho điểm các đề tài (ví dụ thang
điểm từ 1 đến 5) về các lĩnh vực trên như họ đang nói đến trình độ nào
và làm rõ những vấn đề chính, đề xuất và trả lời những điều quan trọng
về lý thuyết và thực tiễn có liên quan, khảo sát tỉ mỉ nghiên cứu có
liên quan và đưa ra ý kiến phản đối hoặc kết quả ngược lại. Ý kiến phê
bình cá nhân càng nhiều, đặc biệt là bằng văn bản là một phần để đề tài
phát triển và cũng có thể cộng vào điểm cá nhân vào cuối khóa học.
Chính từng nhóm có thể tự đánh giá hiệu lực công trình của họ dựa
trên sản phẩm cuối cùng và đóng góp của từng thành viên trong nhóm. Giáo
viên đưa ra mẫu phiếu đánh giá yêu cầu các thành viên của từng nhóm
đánh giá bạn cùng nhóm về các mặt như phẩm chất chuyên môn (có mặt tại
các buổi họp và tham gia đúng lúc), sáng kiến (đề xuất ý kiến, làm việc
khoa học hướng theo mục đích chung), tính độc lập (hoàn thành nhiệm vụ
theo thời gian đã thống nhất, nghiên cứu các chủ đề và chia sẻ các nguồn
tài liệu) (Xem Cramer, 1994, trang 76 đánh giá ví dụ).
Nếu giáo viên giải thích rõ quy trình cho điểm này vào đầu mỗi khóa học
trước khi bắt đầu hoạt động nhóm thì sinh viên sẽ ít lo lắng về cách
cho điểm nhóm. Họ sẽ cảm thấy thoải mái và hướng theo các mục tiêu
chung. Thực vậy, hầu hết sinh viên lo lắng họ sẽ không phải làm trò hề
hay thiếu trách nhiệm đối với các bạn của mình.
Thực nghiệm
Nhiều giáo viên tuy nhận thấy lợi ích của làm việc cộng tác nhưng vẫn
lưỡng lự khi vận dụng phương pháp này. Họ sợ rằng không thể hoàn thành
hết chương trình. Cấu trúc lại một môn học để thêm vào phần làm việc
theo nhóm cũng có nghĩa là phải mất thêm thời gian để giải quyết ít vấn
đề hơn. Nhưng “nghiên cứu đã cho thấy sinh viên làm việc theo nhóm có
thể phát triển khả năng giải quyết các vấn đề và chứng minh được sự hiểu
biết” (Davis, 1993). Có lẽ bắt đầu với việc phân công học nhóm và bổ
sung các bài đọc sẽ giải quyết được một số vấn đề giữa hoàn thành chương
trình và bảo đảm được chiều sâu kiến thức cho sinh viên. Nếu giáo viên
đưa ra những bài tập có ích, hấp dẫn và thích hợp và với sự giúp đỡ đúng
cách sinh viên sẽ đi theo hướng tự do tư duy và có trách nhiệm hơn đối
với việc học tập của họ.
|