Mã số sách:11336
Giá: 25,000
Lượt xem: 520
sach hay
ĐẶT MUA
Giới thiệu về nội dung:
Lời Ngỏ
Sau ngày 26.09.1989 - ngày người
lính tình nguyện Việt Nam cuối cùng rời khỏi Campuchia trở về Tổ Quốc,
tôi may mắn có được ba lần trở về đất nước Ăngko - một lần bằng đường
không và hai lần bằng đường bộ.
Từ trên máy bay nhìn xuống hay
từ mặt đất nhìn ngang, ở đâu tôi cũng bắt gặp những hình ảnh thân
thương, tưởng chừng như màu thịt. Những dòng sông con suối, những cánh
rừng phum làng, những ngọn núi, cánh đồng - tất cả thật thân quen, thật
gần gũi.
Sự xa cách về địa lý chính trị dường như không còn nữa
khi tôi có dịp đi qua những phum làng một thời chưa xa tôi và đông đội
đã có dịp đặt chân qua. Một thời tuổi trẻ chúng tối đã chen vai sát
cánh cùng quân và dân Campuchia bảo vệ cuộc sống bình yên trong phấp
phỏng chiến tranh và bất an rình rập. Một thời mà mỗi bước tiến công là
những hy sinh mất mát, nhiều đớn đau lo âu.
Giờ đây có dịp trở
lại những vùng đất của một thời trong khung cảnh hoà bình thật sự, bên
cạnh người - còn - lại - may - mắn cùng gia đình, tôi mới cảm nhận đầy
đủ giá trị của những năm tháng chiến đấu giữ nước từ xa và giúp bạn là
tự giúp mình.
Mỗi chặng đường qua, mỗi ngày vừa tới trên hành
trang trở lại tôi cảm nhận đầy đủ hơn tiếng gọi bạn bè. Trong mênh mông
đồng lúa, trong nhộn nhịp phố thị, trong tĩnh lặng phum xa, trong uy
nghiêm đền tích.. đâu đâu tôi cũng cảm nhận những ánh mắt trìu mến thân
thương của những đồng đội đã khuất của mình.
"Khúc ca đồng đội"
xuất bản lần này như một lời tri ân, như một niềm hồi tưởng dẫu có muộn
màng. Chiến tranh biên giới Tây Nam đã bước vào kỷ niệm tuổi 30 mà
gương mặt đồng đội ngày xưa qua điểm danh sao vẫn còn thiếu vắng. Xin
bắt đầu chiến dịch mới - chiến dịch thăm lại chiến trường xưa - bằng
khúc ca của những ngày gian khó. Hy vọng " Khúc Ca Đồng Đội " sẽ là món
quà nhỏ trong hành trang trở lại nơi bắt đầu hoặc bắt đầu từ một nơi sẽ
trở lại - Campuchia.
Đầu mùa mưa 2008 Tác giả
....Có những nhà thơ, có những nhà thơ muốn đi thong dong trong tay
không cầm một thứ gì. Họ muốn đi tay không cho được rãnh tay. Hoặc bận
tâm lắm thì cầm một cành hoa. Chúng ta ở vào một thời mà mọi người đều
mang vác thì thơ sợ gì cái việc mang nhiệm vụ lên vai, mang tư tưởng
vao long? Suy nghĩ cố nhiên không phải là đặt một tảng đá lên trán, lên
đầu cho nó hoá khổng lồ. Phạm Sỹ Sáu đã nói về Tổ quốc, về nhân dân, về
chủ nghĩa quốc tế. Về cái sống và cái chết không một chút nặng nề. Thơ
tư tưởng chính là thơ đọc lên mà người ta nghĩ đấy chỉ là thơ, không
cần nhấn mạnh đó là thơ tư tưởng...
Chế Lan Viên
(Lời giới thiệu tập thơ
Khúc ca vào chiến dịch.
Báo Tuổi Trẻ & NXB
Văn Nghệ, 1981)
Thay mặt thế hệ chúng tôi,
những đồng đội đã ngã xuống dưới bóng chiều Preach Vihear, dưới chân
tượng Apsara nhạt nhòa rêu xám..., nhà thơ Phạm Sỹ Sáu vừa được Hội nhà
văn của ba nước Đông Dương trao giải thưởng Sông Mê kông lần thứ 2.
Ba
mươi năm trước trong đội quân tình nguyện Việt Nam đặt chân lên đất
nước Chùa Tháp, giải phóng nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt
chủng, các nhà thơ bước ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ như Thu Bồn,
Nguyễn Đức Mậu, Văn Lê, Anh Ngọc, Trần Thế Tuyển, Ngân Vịnh... đã kịp
thời có mặt để viết lên những khúc ca mới từ chiến trường mới.
Nhưng
nếu ngày ấy không có những cậu tân binh non choẹt vừa rời ghế nhà
trường bước vào cuộc chiến, trực tiếp cầm súng như Thành Nguyễn, Phạm
Sỹ Sáu ở Quân khu 7; Lê Mạnh Tuấn, Huỳnh Kim ở Quân khu 9; Lê Minh
Quốc, Đoàn Tuấn ở Quân khu 5... thì chắc chắn mảng thơ ra đời từ chiến
trường Tây Nam sẽ kém đi sức sống chân thực. Bởi thế hệ chúng tôi đứng
trong cuộc chiến, chứ không phải đứng ngoài quan sát, tìm chất liệu và
cảm hứng để viết.
Thế hệ tân binh chúng tôi đem lại gì cho
thơ? Có nên đặt câu hỏi ngoa ngôn như thế chăng? Thưa, nhà thơ Chế Lan
Viên từng khẳng định: "Khi anh Sáu viết: "Trăng dựng trên đầu/Như theo
ta vào chiến dịch/Và trận mưa cối địch/Khi vầng trăng còn lơ lửng ở
sườn tây..." thì anh lính ấy là nhà thơ đem đến cho ta vầng trăng mới".
Qua thơ, anh Sáu đã dựng lên hình ảnh mới về người lính trong cuộc
chiến tranh Tây Nam.
Thế hệ chúng tôi nhập ngũ từ năm 1977,
ngay sau khi đất nước vừa hòa bình được hai năm. Tâm trạng của người ra
tiền tuyến trong thời điểm này khác với thời chống Mỹ, nói như anh Sáu,
đó là những năm tháng "Đất nước mình: hòa bình và súng nổ". Hơn nữa,
khi nhập ngũ chúng tôi đã được trang bị một ít kiến thức học ở nhà
trường miền Nam, do đó, cái nhìn về chiến tranh cũng khác thế hệ
trước... Theo tôi, đó là yếu tố thi vị hóa cuộc chiến, theo kiểu thư
sinh hơn là chỉ thấy rặt một gam màu gian khổ. Điều này, ta có thể thấy
rõ trong thơ Phạm Sỹ Sáu, tiêu biểu là bài Hành tráng sĩ mới. Anh viết:
"Trận tiền chừ là nơi súng nổ/Cung kiếm chừ là khẩu A.K/Chung rượu chừ
tráng sĩ không say/Lòng say con mắt ai/ Tráng sĩ lên đường hành trang
trên lưng/Nặng gánh giang san lòng cứ bâng khuâng/Tráng sĩ chừ hề áo
xanh nón cối/Ống tên không còn, cái bình đong lủng lẳng thắt lưng...".
Từ
tập thơ Ra đi từ thành phố, Khúc ca vào chiến dịch đến Điểm danh đồng
đội của Phạm Sỹ Sáu, ta thấy bàng bạc các địa danh, những trận đánh,
những ngày luồn rừng tải lương, gánh đạn... cuồn cuộn chất liệu sống.
Nếu không thật sự "dám sống" thì anh Sáu không thể viết một cách rất
lính, rất đời như: "Chiều khô như cái bình tông/Không một giọt nước
thấm trong cổ gầy"; "Khi chiếc lá trên cành cháy vàng rơi rụng/Lá lót
nệm anh nằm là lá cũng mùa khô"...
Vào tháng 2.2009 tới, khi
anh Sáu sang Campuchia nhận giải thưởng Sông Mê kông, thì Đoàn Tuấn và
tôi cũng có mặt. Hành trang đem theo chỉ là tập thơ Đất bên ngoài Tổ
quốc của tôi in chung với Tuấn và tập Khúc ca đồng đội vừa mới in của
anh Sáu. Chúng tôi đem theo và đọc tại chiến trường cũ trong tâm thế mà
mình từng tâm niệm: "Những câu thơ mặc áo lính/Đồng phục xanh màu lá
rừng/Đến với những người ra trận/Như quàng khẩu súng sau lưng".
Theo Lê Minh Quốc - Báo Thanh Niên
|