Mã số sách:9213
Giá: 130,000
Lượt xem: 506
sach hay
ĐẶT MUA
Giới thiệu về nội dung:
Hàng trăm bia đá ở các đền, đình Việt Nam được mở
đầu bằng một lời nhắn nhủ: “Nước có Tổ, Tổ phải có chỗ thờ”, “Làng có
Thần, Thần cần có chỗ ngự”. Đó là một lời khẳng định giá trị tinh thần
của các lễ hội, các nơi chốn sinh hoạt tín ngưỡng - tôn giáo, đã nảy nở
và tồn tại lâu đời ở Việt Nam, nằm rải rác ở trên khắp các vùng, miền.
Dưới
độ góc văn hoá, các lễ hội và đời sống tâm linh ở Việt Nam lâu nay đã
có những đóng góp to lớn vào việc xây dựng đạo đức xã hội, làm cho con
người Việt Nam sống lành và thiện hơn, thêm thương yêu đồng bào, đồng
hương, thêm quý trọng quê hương xứ sở, đem lại những giờ phút thanh
lành, nhẹ nhõm, góp thêm cho đời những sinh hoạt giải trí, vui chơi với
đủ chiều sâu tâm linh cùng tinh thần cộng cảm là con cháu một tổ Hùng,
một đất Việt.
Dĩ nhiên, trong guồng quay tất
yếu của đời người ngày nay và trong những năm tháng sắp tới, những gì
là mê tín, là lạc hậu còn sót lại của một thời đã qua, sẽ lần lượt gạt
bỏ, để đời sống tinh thần ngày càng thêm trong sáng, con người ngày
càng thêm văn minh.
Cuốn Địa Chí Tôn Giáo Lễ Hội Việt Nam
là một công trình sưu tập đầy tâm huyết của một người nghiên cứu lâu
năm về tôn giáo và tính ngưỡng, đã từng qua nhiều năm làm công tác quản
lý tôn giáo trên cương vị Phó Trưởng ban Tôn Giáo Chính Phủ; cuốn sách
sẽ giúp bạn đọc hiểu biết thêm những nơi chốn tâm linh lễ hội thờ cúng,
cầu nguyện trên khắp lãnh thổ Việt Nam.
Từ
trước đến nay, chúng ta đã có không ít sách báo viết về các nơi chốn
tâm linh-lễ hội, thờ cúng, cầu nguyện trong nước, nhưng phần lớn đều
đứng trên độ góc tiếp cận nghệ thuật tạo hình, kiến trúc hoặc du lịch.
Vì vậy, không chỉ những người có niềm tin siêu nhiên, mà các nhà nghiên
cứu lịch sử, xã hội học, tôn giáo, các nhà văn hoá, và nói chung những
ai quan tâm đến “đời sống tâm linh” đều muốn có một cuốn sách viết dưới
độ góc của xã hội tôn giáo, tập hợp địa chí lễ hội, nơi thờ cúng cùng
các điểm mở tế lễ định kỳ và không định kỳ, ở khắp trong nước.
Xã
hội học tôn giáo (sociologie religieuse) là một ngành trong bộ môn tôn
giáo học, nó nghiên cứu quá trình phát triển của tôn giáo, bản chất,
vai trò và vị trí của tôn giáo trong xã hội. Trong xã hội tôn giáo, có
thể dùng nhiều hướng tiếp cận khác nhau, như tiếp cận hình thái học
(approche morrphologique), tiếp cận loại hình học (approche génétique).
Nhờ đó, xã hội học tôn giáo dần dần tìm được cách thống nhất trở lại
cái mà lẽ thường vốn hay chia tách ra: đó là sự xuất hiện các tín
ngưỡng, tôn giáo và các công trình kiến trúc thờ cúng, lễ bái, nguyện
cầu,… rồi có thể dần dần tìm thấy nét chung trong các tôn giáo, sự xung
đột bên trong và nhân vật trung tâm của các tôn giáo, để thấy những
người sáng tạo ra tôn giáo không phải là cỗ máy tự động, mà là đấng
sáng tạo không do ai sáng tạo ra cả (créateurs religieux incrées).
Ngôn
ngữ học cấu trúc (linguistique structurale) cũng ngày càng thịnh hành
và phát huy ứng dụng của nó trong phân tích nội dung các ngôn từ tôn
giáo, nhất là trong các lý lẽ “thần thánh học”, trong các luận điểm và
các cách lập luận trong thần thoại, trong truyền thuyết,… góp phần đi
tới những hình ảnh xác thực về môn xã hội học tôn giáo này.
Từ
trong thành tựu của xã hội học tôn giáo, cuốn sách này sẽ giới thiệu
các cơ sở, nơi chốn lễ hội, hoạt động tôn giáo, các địa danh thờ lạy,
lễ bái, cầu cúng, nguyện ngắm, … trên góc độ của lịch sử mối quan hệ
với đời sống xã hội, từ đó thấy được các mặt tích cực và tiêu cực của
thờ cúng, lễ bái, cầu nguyện,…
Tôn giáo, tín
ngưỡng và các niềm tin siêu nhiên là những lĩnh vực không dễ có thể tìm
được sự đồng thuận về nguồn gốc, hiện tại cũng như tương lai… Thậm chí,
ngay cả số liệu cụ thể hằng ngày cũng không phải là dễ tìm thấy, nên
đôi khi cũng đành phải dừng lại ở những tư liệu gọi là “bước đầu”, như
theo số liệu năm 2001 của Ban Tôn giáo của Chính phủ* thì sáu tôn giáo
lớn ở Việt Nam có 18.358.345 tín đồ, giữ tỷ lệ 19,4% trong tổng dân số.
Số tín đồ (gồm cả giáo sĩ và chức sắc) của từng tôn giáo như sau: Phật
giáo: 9.038.064 người; Công giáo: 5.324.492 người; Cao Đài: 2.276.978
người; Phật giáo Hoà Hảo: 1.232.572 người; Tin Lành miền Nam: 414.915
người; đạo I-xlam (Hồi) các dạng: 64.991 người; Tin Lành miền Bắc:
6.333 người. Cũng theo số liệu bước đầu của Ban Tôn giáo của Chính phủ,
hiện nay nước ta có 22.195 cơ sở thờ tự của các tôn giáo, trong đó Phật
giáo có 14.043 cơ sở; Công giáo có 6.003; Cao Đài có 1284; Phật giáo
Hoà Hảo có 522; Tin Lành cả bắc và nam: có 266; đạo I-xlam có 77 cơ sở.
Cả nước ta hiện có 8294 lễ hội lớn nhỏ, trong đó lớn nhất được coi là
Giỗ tổ Hùng vương trên quy mô quốc gia.; thêm vào đó, còn có khoảng 40
000 địa điểm lễ hội, tín ngưỡng dân gian (không tính đến gốc đa, nhà
mồ, bàn thiên,…). Đó là còn chưa kể đến đời sống tâm linh, hội lễ và
tín ngưỡng dân gian (không tín đến gốc đa, nhà mồ, bàn thiên, …). Đó là
còn chưa kể đến đời sống tâm linh, hội lễ và tín ngưỡng của từng cộng
đồng trong 53 dân tộc anh em (gồm 10.527.718 người, chiếm 13.8% trong
tổng số dân Việt Nam), như hội Lồng Tồng của dân tộc Tày-Nùng, lễ hội
Ka-tê của dân tộc Chăm, lễ hội Chol Chnam Thmây của người Khơ-me,
v.v..; tuy không có “cơ sở” cố định, vì vậy cuốn sách này cũng cần dành
một số mục từ để giới thiệu tóm tắt vài nét sơ lược của đời sống tâm
linh đặc sắc này.
Đời sống tâm linh nói
chung, sinh hoạt tôn giáo - tín ngưỡng nói riêng, là những hiện tượng
xã hội hết sức nhạy cảm và phức tạp, với những chặng đường phát triển
uốn khúc, luxcs thịnh, lúc suy; nó vừa thực, vừa ảo, có mặt gắn với đời
sống nhưng lại giữ diện mạo thần bí, không phải lúc nào và ai ai cũng
nắm bắt được bản chất một cách chắc chắn. Thế nhưng, do ý muốn phục vụ
được đông đảo độc giả thuộc nhiều tầng lớp, nhiều niềm tin khác nhau,
chúng tôi cố gắng trình bày các vấn đề một cách đơn giản rõ ràng và dễ
hiểu, đôi khi vẫn để nguyên những thần tích, thám tích mà căn cứ, gốc
rễ còn rất đỗi mơ hồ, mặc dầu muốn thật chuẩn xác, vì tôn giáo cần phải
được nghiên cứu và trình bày một cách toàn diện, cụ thể, biện chứng
trên nền tảng tri thức triết học và lịch sử nhất định.
Mời bạn đón đọc.
|